Hội nghị khoa học Bệnh viện Nội tiết Trung ương năm 2021 với chủ đề "Cập nhật chẩn đoán, điều trị bệnh nội tiết - đái tháo đường trong bối cảnh dịch COVID-19" được tổ chức nhằm cập nhật tiến bộ khoa học kỹ thuật và trao đổi kinh nghiệm chuyên môn
Kíp phẫu thuật của Trung tâm Y tế đã tiến hành mổ cấp cứu, đặt dẫn lưu màng phổi trái hút ra khoảng hơn 2 lít nước máu và 200g máu cục. Qua kiểm tra thấy lách bị đứt lìa cuống và vỡ cực giữa, các bác sĩ đã tiến hành khống chế cặp cuống lách và cắt lách toàn bộ. Phần lá lách của bệnh nhân Bình bị đứt lìa cuống, vỡ cực giữa. Ảnh: TTYTKS
Sau khi xem xét tờ trình của Sở LĐ-TB&XH, UBND tỉnh Cà Mau thống nhất tạm thời tiếp nhận Yuan vào chăm sóc nuôi dưỡng tại Trung tâm Bảo trợ xã hội. Ngày 2/9, Công an tỉnh Cà Mau có báo cáo về nhân thân của bệnh nhân 15 tuổi. Theo báo cáo, thông tin mà bệnh nhân cung cấp thì
Mẫu phiếu xét nghiệm tế bào nước dịch Phiếu xét nghiệm nước dịch chẩn đoán bệnh án; Mẫu phiếu xét nghiệm huyết học Phiếu xét nghiệm máu trong y tế; Mẫu phiếu lĩnh và phát máu Phiếu truyền nhận máu cho bệnh nhân; Mẫu bệnh án truyền nhiễm Hồ sơ theo dõi bệnh
- Với cơn co giật toàn thể: Mắt nhắm chặt trong suốt quá trình co giật, cắn vào đầu lưỡi hoặc bên trong miệng, đầu lắc liên tục sang hai bên. Mất kiểm soát về hành vi và nhận thức - Với cơn vắng ý thức tạm thời, mắt nhìn vô hồn chăm chăm về phía trước và không nhận thức được điều gì đang xảy ra.
. Miền Trung từ lâu đã được coi là khu vực vất vả khó khăn cho người dân bởi thời tiết khí hậu khắc nghiệt. Vậy nhưng, vào mỗi dịp năm mới về cũng như khắp nơi trên cả nước, người dân miền Trung ở mọi hoàn cảnh nào thì cũng vẫn náo nức đón Tết theo cách riêng của mình. Tết đến mang cho mọi người dân ở miền Trung một năm mới ấm no và khiến cho họ tạm quên đi cái vất vả khó khăn và cái khí trời mà họ đã trải qua trong một năm cũ. Nơi nào cũng vậy, phong tục Tết của mỗi miền mỗi khác, bạn đã biết gì về phong tục Tết của người miền Trung chưa? Hãy cùng Art Travel tìm hiểu xem nhé! 1. Chợ Tết Chợ Tết được mọi người dân coi là một nét văn hóa rất riêng tại Việt Nam, nhất là ở những vùng nông thôn miền Trung. Nhắc đến Tết là không thể nhắc đến chợ hoa. Thời điểm tổ chức chợ Xuân cũng là thời điểm mà mọi người dân đổ xô ra đường chọn lựa cho nhà mình những cây hoa đẹp nhất để đón năm mới. Một chợ hoa xuân ở miền Trung có thể sưu tập đầy đủ bất kỳ loài hoa nào từ Bắc đến Nam với vô số các loại vô cùng đa dạng về màu sắc, phong phú về kiểu dáng. Tuy nhiên cũng giống phương Nam, người miền Trung thường mua về những cây hoa mai vàng rực rỡ trong những ngày đón Tết. Chợ Tết miền Trung luôn tấp nập người mua kẻ bán với không khí nhộn nhịp 2. Mâm Cỗ Người miền Trung ăn cả bánh chưng và bánh tét vào dịp Tết thế nhưng chỉ cúng bánh chưng trong các mâm cỗ tiến cúng ở miếu điện trong cung đình. Vào những dịp nhà vua tế Trời ở đàn Nam Giao hoặc tế các vị Tiên đế ở Thế miếu. Còn mâm cơm để cúng ông bà trong 3 ngày Tết là mâm cỗ có nhiều món ăn được chế biến gồm đủ các thành phần. Dù cho những món ăn không được đa dạng và hấp dẫn nhưng những thói quen và truyền thống đón Tết của người miền Trung cũng rất độc đáo, hấp dẫn và góp phần đa dạng màu sắc ngày Tết nguyên đán của người Việt Nam. Mâm cỗ truyền thống đón Tết độc đáo của người miền Trung >>Xem thêm Lễ hội Pháo hoa Quốc Tế Đà Nẵng 2018 có gì mới? 4 lễ hội lớn tại miền Trung mà bạn không thể bỏ lỡ. Ngũ Quả Người dân quê miền Trung cũng không quá câu nệ hình thức ý nghĩa của mâm ngũ quả, bởi ta đều biết từ lâu miền Trung là miền khó khăn nhất trong các vùng miền Việt Nam. Trong mâm ngũ quả của người miền Trung, chủ yếu là có gì cúng nấy, chỉ cần ta có thành tâm dâng kính tổ tiên. Người miền Trung không hay dùng các loại chuối, trái cây có vị đắng, cay, mà chỉ chọn loại có vị ngọt, tròn, thơm và lâu hư úng để chưng mâm ngũ quả cho đẹp mắt, độc đáo, mong cầu an vui, hạnh phúc cho gia đình trong năm mới. Ngược lại, người miền Trung sẽ không chưng các loại cam hay quýt bởi người dân tin theo quan niệm "cam đành quýt đoạn". Mâm ngũ quả ngày Tết với quan niệm "cam đành quýt đoạn" của người miền Trung 4. Cúng Ông Táo Trong mâm cơm cúng ông Táo của người miền Trung thường chỉ có xôi, thịt heo luộc và ít hoa quả bởi người dân miền Trung có quan niệm kiêng kị cúng cá chép. Vậy nên, so với các nghi lễ vào ngày Tết của người miền Bắc thì ở miền Trung đơn giản hơn rất nhiều. Sau lễ cúng, ba ông Táo của các gia đình sẽ được thay mới, các ông Táo cũ được đem đi đặt ở một góc đình, miếu hoặc gốc cây đầu làng là những nơi linh thiêng, không ai dám xâm phạm. Thời gian cúng ông Táo tại miền trung là vào ngày 23 tháng Chạp. Mâm cúng ngày lễ tiễn đưa ông táo về trời 5. Ngày cuối cùng của năm Vào ngày cuối cùng của năm là ngày 30 Tết, người dân miền Trung vào buổi sáng sẽ đi đến mộ thắp hương cho ông bà tổ tiên và mời họ về ăn Tết với con cháu trong nhà. Sau đó sẽ đi sắm sửa những vật dụng cuối năm và làm mâm cúng Tất Niên. Người dân quan niệm rằng vào những ngày cuối năm nên trả hết những món nợ để tránh trường hợp chủ nợ đòi vào đầu năm sẽ mang vận xui đến cho gia đình. Vào chiều 30 Tết, nhà nhà đều làm lễ Tất Niên để tiễn năm cũ đón năm mới. Lễ này thường có một mâm ở bàn thờ gia tiên, một mâm ở giữa nhà và mâm thị thực đặt ở trước cổng. Sau khi cúng Tất niên, cả gia đình thường quây quần bên nhau trong không khí ấm ấp, rộn ràng cạnh nồi bánh chưng, bánh tét. Lễ cúng tất niên tiễn năm cũ đón năm mới của người miền Trung Miền Trung - Miền đất thân thương và đáng nhớ! BTV Trương Mẫn Vy
Trai đàn chẩn tế còn gọi là trai đàn bạt độ. “Bạt” có nghĩa là nhổ lên, nhổ tận gốc rễ phiền não tham sân si, làm cho thế giới nhẹ nhàng thanh thản. “Độ” có nghĩa là vượt qua, thoát khỏi những chướng duyên mê si tăm tối, những sự việc xảy ra rắc rối hàng ngày, hằng giờ, hằng tâm . Ý nghĩa trai đàn chẩn tế Trước nhất chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa trai đàn chân tế? Trai đàn là lễ hội cúng chay, chẩn tế là thí, cấp phát, phát chẩn gạo, thức ăn... giúp người đói. Trong đạo Phật, lập đàn chẩn tế là một nghi thức cúng, để bố thí thức ăn cho cô hồn. Trai đàn chẩn tế còn là lễ hội “làm chay” bố thí cấp phát lương thực giúp cho người qua cơn bức ngặt đói khát, không còn thiếu thốn, ban phát thí thực cho cô hồn hưởng thọ, được no. Trai đàn chẩn tế còn gọi là “trai đàn thủy lục” là một pháp hội cúng chay và cầu siêu cho những vong hồn người chết không có ai thờ tự, không có nơi nương tựa, đang sống vất vưỡng ở dưới nước và ở trên cạn. Trai đàn chẩn tế còn gọi là trai đàn bạt độ. “Bạt” có nghĩa là nhổ lên, nhổ tận gốc rễ phiền não tham sân si, làm cho thế giới nhẹ nhàng thanh thản. “Độ” có nghĩa là vượt qua, thoát khỏi những chướng duyên mê si tăm tối, những sự việc xảy ra rắc rối hàng ngày, hằng giờ, hằng tâm niệm. Nhổ bật gốc rễ của lòng tham để vượt qua các nẻo luân hồi, đấy là mục đích chính của đạo Phật.. Giáo lý Phật dạy thì nhiều, gồm tam tạng thánh điển, như nấc thang từ thấp lên cao, từ giáo lý dạy cho Cư sĩ cho đến giáo lý dạy cho hàng xuất gia, từ tiểu thừa lên đại thừa, những giáo lý cao siêu đó, cuối cùng được đúc kết "chỉ có một vị duy nhất là vị ly tham, vị giải thoát trần tục, xả bỏ vị kỷ, ích kỷ cá nhân mà sống chua, chia sẻ cùng cộng đồng...” Các bậc Tổ sư xưa, trong đó có các bậc Thiền sư tu đắc đạo, các bậc Đại sư dạy tu niệm Phật, các bậc Pháp sư dạy niệm chú. Việc chủ yếu của ba nhà Phật học nầy là chế tác đấy đủ pháp môn tu, trong đó có tự lực và tha lực và cuối cùng Ngài Bất Động pháp sư. Ngài tu ở núi Mông Sơn, thời nhà Tống hoằng truyền phối hợp tự lực và tha lực gom thành một mối thành bài kinh gọi là Mông Sơn Thí Thực. Trong bài Mông Sơn có dạy niệm Kinh, niệm Phật, niệm chú, tạo thành một uy lực dũng mãnh đánh tan những tham sân si, những nghiệp lực của chúng sanh vạn lọai. Trai đàn chẩn tế thời xưa Theo Ngài Đạo An 314-385, danh Tăng thế kỷ thứ IV thời Đông Tấn, hiện nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc thì tập tục cúng chẩn tế cho người chết không phải là tập tục của Phật giáo. Chỉ đến thế kỷ thứ VI, vua Lương Võ Đế 464–549 mộng thấy một vị Thần Tăng bảo rằng “Bốn loại quần linh trong sáu đường bị khổ vô lượng, sao chẳng lập đàn Thuỷ lục mà phổ tế. Trong các công đức, đó chính là công đức lớn vậy.” Vua Lương Vũ Đế hỏi các sa môn, thảy đều không biết, riêng ngài Chí Công khuyên vua rộng tìm kinh luận ắt có nhân duyên. Vua bèn sưu tầm kinh bối diệp để ở điện Pháp Vân, sớm tối giở đọc. Y theo việc ngài A Nan gặp Diện Nhiên quỷ vương, vua thiết lập ý nghĩa bình đẳng hộc thực, chế tác nghi văn, ba năm mới xong, rồi cử hành Thủy lục trai đàn ở chùa Kim Sơn, thuộc Trấn Giang, Giang Tô, Trung Quốc ngày nay Thời đại nhà Đường 618 - 907, đến nhà Tống 960-1279 bên Trung Hoa, mỗi đàn có một hay nhiều trai chủ đóng góp, cùng chung thực hiện. Tại Việt Nam, sách Phật “Thiền uyển tập anh” Tăng thống Huệ Sinh -1064 đời vua Lý Thánh Tông 1023 – 1072, có để lại tác phẩm “Pháp Sự Trai Nghi” nói đến nghi thức chẩn tế. Đến thế kỷ thứ XVIII sau khi chiến thắng quân Thanh vua Quang Trung 1753 – 1792, vua Gia Long 8/2/1762 - 3/2/1820 sau khi thống nhất sơn hà, đổi tên nước là Việt Nam, lên ngôi đem triều đình và trăm họ gom về một mối. Nhà vua liền tổ chức trai đàn bạt độ “tạo cho không khí chết chóc, cảnh tàn sát lẫn nhau” sự điêu tàn “khí chết” không còn quây quần bên triều đình dòng họ Nguyễn Phúc sau thời chiến. Vào năm Giáp ngọ, Chúa Nguyễn Phúc Chu 1675-1725 cho tổ chức trai đàn tại chùa Linh mụ cầu cho quốc thái dân an, cho các quân lính tử trận được siêu thoát. Và vào những năm đầu thập niên 70, do chiến tranh gây ra nhiều cảnh chết chóc hãi hùng, khoa nghi chẩn tế được thực hiện rất nhiều, nhất là tại Huế. Hầu như tháng nào ở đây cũng có ít nhất một đàn. Trai đàn tại các tự viện Năm 1961 Tân Sửu tại Tổ Đình Linh Sơn, núi Bồng Lai, Đức Tôn sư Thiện Phước - Nhựt Ý cũng tổ chức lễ cầu an cầu siêu, trai đàn bạt độ 7 ngày. Cầu nguyện anh linh chiến sĩ, anh linh liệt sĩ, các chư vị, chư thần, trăm quan thần cựu hy sinh vì đại nghĩa, các vong hồn yểu tử, kẻ chết sông người chết suối, tại nạn trên không, dưới biển. Lễ chẩn tế rất quy mô có cả tín đồ Phật tử tham dự ghi danh cầu nguyện, các đàn của các tự viện chùa Linh Sơn, Nhứt Nguyên bửu tự, chùa Phổ Hiền, chùa Phước Thiện An ở dưới thế cũng đăng sơn, rước các vong linh, thập lọai cô hồn câu hội nghe kinh, thọ hưởng phước lạc. Tháng 7 năm Nhâm Dần 1962 Linh Sơn cổ tự do Hòa thượng Thích Hồng Quang làm Trụ trì, gần chân núi Bồng Lai, hiện nay từ năm 2000 do Sư cô Thích nữ Hiếu Hạnh làm Trụ trì. Lúc bấy giờ Hòa thượng tổ chức trai đàn bạt độ cầu siêu thập lọai cô hồn có khoảng 800 người tham dự, lúc bấy giờ Sư cũng tham dự làm công quả chuyển lương thực cho chùa. Một cuộc thí thực bao giờ cũng tốn kém, Phật tử phải sắm sanh bánh nếp, bánh cấp, bánh cúng, bánh tét, bánh ngọt, các lọai giấy vãng sanh, giấy tiền, giấy vàng bạc, tất cá các lọai bánh ngọt được sắp xếp lên đến hàng chục nia, các lọai trái cây xẻ sẵn, muối gạo, tiền xu, tiền đồng, tiền bạc cắc, tiền giấy được đổi thành tiền nhỏ được đặt vào các nia trống, tất cả đều được sắp xếp đặt lên giàn dựng thật cao khoảng 12 mét. Đến 12 giờ trưa ngày 14 tháng 7 năm đó, chư vị Pháp Sư, chư sơn thiền đức, chư Tăng đều lên trên giàn tác pháp, tụng kinh Mông sơn cho đến 15 giờ hồi hướng, đổ giàn. Dùng từ đổ giàn tức là xả lưỡi ông tiêu, thí các lọai bánh, tiền, trái cây đã cúng và được làm phép mở miệng cho các cô hồn ngạ quỷ đến nhận phần thọ thực, ăn uống. Người dương chủ yếu là trẻ em, thay mặt các gia đình người lớn đến xin lưỡi ông tiêu, xin bánh, nói là xin, chứ thật ra rất nhiều những hình ảnh chỉ là chụp giựt, ai giỏi thì lấy được nhiều, ai dở yếu hơn thì lấy được ít. Quan niệm của các vị là đem của thí nầy về nhà ăn sẽ hết bệnh, khỏi bị tà ma quấy nhiễu. Đây là truyền thống thí thực có từ thời nhà Đường, nhà Tống do chư Tăng bên Trung Hoa thực hiện. Truyền thống chẩn tế trai đàn bạt độ vẫn còn giữ truyền thống tại chân núi Bồng Lai, Tổ Đình Linh Sơn Bà Rịa Vũng Tàu, các nơi khác trong tông phong Tịnh Độ Non Bồng còn tác pháp như chùa Thiền Tịnh Dakao 1964, Long Sơn cổ tự Bình Dương, Quan Âm Tu Viện Đồng Nai, Nhứt Nguyên Bửu Tự Bình Dương, chùa Phước Thiện An Chí Minh, chùa Phước Ân Long An, chùa Phước An Gò Công, Tiền Giang hằng năm đều có cúng trai đàn bạt độ. Năm 1971, 1972 hai năm liền Đức Tôn sư tổ chức lễ trai đàn bạt độ cầu nguyện cho những người chết vì chiến tranh, mỗi lễ trai đàn tổ chức 7 ngày, mỗi ngày có khoảng lượt tín đồ Phật tử khắp nơi về tham dự, ghi danh cúng kiếng cầu nguyện chư vong linh. Cúng trai đàn chẩn tế có tâm vóc quy mô, quy tụ nhiều gia đình gọi là đại lễ. Cúng vong là nghi lễ các tự viện xưa cũng như nay cúng hàng ngày, hoặc ở gia đình có nhu cầu cúng kiếng, chỉ thỉnh một vị Thầy để chủ trì lễ cúng vong theo nghi thức Tiểu Mông Sơn. Cúng vong còn là nghi lễ cúng kiếng cầu siêu cho vong linh người thân vừa qua đời, cúng thất, tuần chung thất, cúng 100 ngày, cúng giáp năm, cúng mãn khó, cúng kỵ giỗ theo nghi thức cúng cửu huyền. Lợi ích trai đàn chẩn tế Cúng trai đàn chẩn tế xong các gia đình rất vui mừng vì đã làm được việc phước thí lớn lao. Việc tổ chức trai đàn có 2 ý nghĩa chánh Một là, giúp các gia đình Phật tử có dịp gặp nhau, làm việc phước thí theo tâm nguyện của ông bà, của gia đình. Việc cúng kiếngg đem lại lợi ích, đoàn kết hòa hợp trong các giới Phật tử, tuy là Phật tử nhưng ít gặp nhau, nay được gặp lại trong lễ cúng trai đàn làm việc bố thí, sinh khí đạo đức sanh khởi, mọi gia đình an vui, an cư lạc nghiệp. Hai là tạo cho tâm Phật tử ngày càng được rộng lòng từ, biết thương yêu muôn loài vạn vật, muốn thấy nó sống, không muôn thấy nó chết. Việc trai đàn bạt độ, giúp cho Phật tử mở rộng tầm nhìn ngòai thế giới chúng ta đang ở còn có rất nhiều thế giới khác, thế giới vô hình, hai hình, có chân, không chân, nhiều chân, những chúng sanh khổ đau rất cần đến chúng ta. Người Phật tử tập lần xả bỏ những vị kỷ, những ích kỷ cá nhân, những pháp bất thiện như ích kỷ, cá nhân, hung bạo, dữ dằn lần lượt sẽ không còn, mọi người thương yêu nhau tạo cho tình nghĩa xóm làng được nhân rộng, hận thù tiêu tan, sự an lành luôn xuất hiện như trong thế giới nhà Phật. Ba là, Đạo Phật tiếp nhận Phật sự trai đàn chẩn tế từ các vua chú thời nhà Đường, nhà Tống, đem đạo vào đời, gần gũi quần chúng, đạo đức tăng trưởng, giúp cho mọi người gần gũi nhau hơn, xóm làng an cư lạc nghiệp. II. Người tu không ăn đồ cúng vong, cúng cửu huyền? Nói chung là “người con Phật”, đây là sự tín ngưỡng có phần sâu sắc "mọi người đều nghĩ có người bên kia thế giới, có cuộc sống bên kia thế giới, nên khi cúng kiếng cho chư vị bên đó, người cúng nghĩ rằng mọi người bên kia thế giới đã “hưởng rồi”, trong dương gian thường nói là “hưởng mùi vị”, hay “hưởng hơi”, xúc thực. Do đó còn gì để mọi người bên đây ăn uống, nên nói không ăn là vậy. Đứng về mặt đạo đức, người “dương thế”, mắt thịt phàm phu không ăn đồ cúng vì thức ăn đó không phải dành cho người “dương thế”, mà dành cho người bên kia thế giới được cúng. Đây cũng là một trong các lễ của nghi lễ cúng kiếng. Nói thế thôi, chứ trong nhà của mỗi người Việt Nam nhà nào cũng có làm lễ giỗ, kỷ niệm những người đã khuất, gọi là cửu huyền thất tổ, những người được cúng giỗ đều được thờ chung với bàn thờ cửu huyền. Người Việt rất quan trọng lễ kỵ giỗ, thường là làm trâu, bò, làm heo, nhiều gà vịt để sau khi cúng ông bà xong, đãi bà con, xóm giềng. Làm gì thì làm, ngày cúng giỗ ông bà, mọi người không sợ tốn hao tiền của, nghĩa là gia chủ sẽ đem hết tấm lòng tốt của mình mà đãi khách, cho đến buổi chiều thức ăn không còn, gia quyến phải ăn thịt “xà bần”, tức là đồ ăn dư cũng không sao. Chư Tăng Ni không thọ dụng đồ cúng vong, cúng cửu huyền. Lý do chư Tăng Ni thuộc bậc thọ Thiên Nhơn cúng, bậc Ứng cúng, tức là người được cung cấp dưỡng nuôi, cúng dường. Muốn dâng cúng chư Tăng Ni người cúng hết sức cung kính mà lễ bái dâng cúng dường phẩm vật, thức ăn. Do vậy đồ cúng vong, cúng cửu huyền rồi không bao giờ đem dâng cho chư Tăng Ni, đó là do lòng thành kính bổn phận, có truyền thống lâu đời của Phật tử, nên có câu Tín chủ cúng dường Phật Pháp Tăng Chứng minh công đức nhờ Tam bảo Chú tâm nguyện độ thiện duyên nầy Tín chủ đời đời thêm phước báo. Sở cầu sở ỳ đều thành tựu Tín nhớ hạnh y nguyện trở về Nay mới gieo nhơn nhơn chánh giác Sau nầy chứng quả quả bồ đề. Bài học Khất sĩ Tại các chùa hằng ngày đều có lễ cúng vong, một là cúng thí thực, nhà Sư tụng Tiểu Mông Sơn thí gạo muối, nước sau thời công phu chiều thí muối gạo, nước trước chánh điện, hai là cúng vong những vị mới qua đời nơi nhà cửu huyền. Tất cả những thức ăn cúng tại nhà cửu huyền, mỗi món một ít, sau khi cúng xong, do thời gian cúng lâu quá, thức ăn nguội lạnh, nên đem hấp lại cho nóng và đơm thêm thức ăn mới vào, dành đãi cho tín đồ Phật tử và mọi người cùng ăn rất quý và trọng thị. Riêng chư Tăng hoặc chư Ni khi thọ thực, bắt buộc phải cúng quả đường dâng cúng lên Phật và cập Tăng, thọ thực tại trai đường, do đó chư Tăng Ni không bao giờ gặp thức ăn cúng vong, cúng cửu huyền. Lý do không ăn đồ cúng là vậy. Do nền nếp sinh họat của giáo đoàn và các tự viện, tịnh xá như trên, nên không có câu nói "người xuất gia không ăn đồ cúng.” Chúng ta cũng không nên gán ghép cho người xuất gia thành ngữ “chư Tăng Ni không ăn đồ cúng”, một câu nói có thể làm mất tinh thần lục hòa, chưa thật sự tôn kính chư tôn đức Tăng già và giáo đoàn của Phật. Thành kính là phước báo Quên mình là cội phước Cầu xin cho tín chủ Mau đắc quả thanh tịnh
Cúng thí thực cô hồn là một khoa nghi cứu độ cho các oan hồn uổng tử, không nơi nương tựa đã có tự ngàn xưa. Phát xuất từ hồi Phật còn tại thế. Ý nghĩa của việc cúng thí thực cô hồn Nghĩa của hai chữ thí thực là bố thí thức ăn, về quan niệm ăn của Phật Giáo như saua. oạn thực thức ăn cứng, có thể chia thành phần như cơm, cháo, rau, canh, thịt, cá & các thức vật có hương vị làm xúc cảm tâm thức. Tóm lại là những thức ăn thông thường mà các chúng sanh trong cỏi Trời, Người và súc vật thường ăn, ăn bằng miệng và tiêu hóa Xúc thực Ăn với thức quan hay biết mùi vị, tức là cách ăn của Quỷ, Thần thọ hưỡng hương vị mà Tư thực ăn với sự kiện thần giao tư tưởng, là phép ăn của bậc Thiên trên cỏi sắc giới, ăn với phương thức thuyền duyệt tức là không chủ về vật phẩm ăn mà chỉ thọ hưỡng hơi hương, luôn luôn xem việc ăn là đạo vị, thanh Thức thực ăn qua sự giao cảm của thức thứ 8, phép ăn nầy bậc Thánh, Phàm có khác nhau, bậc Thánh hưỡng thụ một cách hồn nhiên không phân biệt, còn bậc phàm phân biệt là ngon, dở; do chỗ phân biệt mà có tham muốn rồi khởi lên tư tưởng tham ăn đến bị vào vòng sinh tử, luân vậy mà khi mình ăn thì bậc Thánh cũng thọ hưỡng cho đến các loài ngạ quỷ, súc sanh đều thọ dụng. Do đó mà các bậc tu hành, khi ăn trước hết phải cúng dường lên Phật, lên Tổ rồi làm phép Thí thực cho khắp thập loại chúng sanh, cô hồn, hai chữ cô hồn là nói chung tất cả những hương hồn bơ vơ, cô độc, không nơi nương tựa, không nơi thờ cúng, không ai ghi nhớ. . . Nhưng theo kinh sách thì gọi là Thí Thực Ngạ quỷ tức là ban phát thức ăn cho các loài quỷ đói, do đó những hương hồn bơ vơ, không nơi nương tựa cũng trở thành ngạ quỷ. Vậy thí thực cô hồn cũng là Thí thực Ngạ quỷ. Cúng thí thực cô hồn là một khoa nghi cứu độ cho các oan hồn uổng tử, không nơi nương tựa đã có tự ngàn xưa. Phát xuất từ hồi Phật còn tại thế. Trong kinh Phật thuyết Diệm Khẩu Ngạ quỷ à la ni có ghi lại Một hôm ngài A Nan đang tịnh tu, có một con quỷ mặt mày quái dị đến nói với ngài trong ba ngày nữa ngài sẽ chết. Ngài đem chuyện ấy bạch lại với đức Phật. Phật dạy khắp trong ba cõi đều có các loài ngạ quỷ cần cứu độ. Phật còn dạy cho ngài A Nan những chú nguyện cần thiết và bảo lấy gạo nấu cơm cháo để cúng thí. Từ đó về sau mỗi lần thọ trai, các đệ tử của Phật thường sớt lại phần ăn để bố thí chúng sanh và ngạ quỷ. Mãi về sau, việc cúng thí được chư Tổ sắp xếp theo thứ lớp Cúng Phật, Cúng Tổ, thí thực ngạ quỷ cô hồn trước khi chư Tăng thọ trai. Tại chùa, cúng thí thực như là một phần hành trì thiết yếu hằng ngày sau công phu chiều. Ở Việt nam, ngày trước cứ mỗi lần trong nhà có lễ quan, hôn, tang , tế đều có cúng thí thực. ơn giản một mâm lễ nhỏ, một nồi cháo trắng gọi là cúng cháo, hay thông thường gọi là cúng Mông sơn thí Nguyện nhân đời nhà Tống, Cam lồ Pháp sư lập một trai đàn cúng thí thực trên đỉnh Mông sơn thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, phần khoa nghi dựa theo kinh chú Phật thuyết và lời cầu nguyện tóm tắc như sau1/ Trình bày tất cả do tâm tạo, qua kệ Hoa Nghiêm Nhược nhơn dục liễu tri, Tam thế nhất thiết Phật, Ứng quán pháp giới tánh, Nhất thiết do tâm Nguyện xa lìa cảnh ác thú bằng cách tập trung tư tưởng phá tan mọi phiền não, sám hối tội lỗi, giải sạch oan khiên qua chú Phá địa ngục chơn ngôn, Phổ triệu thỉnh chơn ngôn, Giải oan kết chơn Cung thỉnh Mười phương Tam bảo, Thích Ca, Quán Âm, ịa Tạng, và A Nan à giáng lâm tác Hướng dẫn chúng sanh quy y Tam bảo Quy y Phật lưỡng túc tôn, Quy y Pháp ly dục tôn, Quy y Tăng chúng trung Sám hối Nhất thiết Phật tử, Hữu tình, Cô hồn giai sám hối. Nói chung cả người cúng lẫn kẻ thọ cô hồn phải thành tâm sám hối mới có lợi lạc. Kẻ cúng không bị đọa lạc, người hưởng cô hồn mới thọ dụng được pháp Phát đại nguyện Chúng sanh thệ nguyện độ, Phiền não thệ nguyện đoạn, Pháp môn thệ nguyện học, Phật đạo thệ nguyện thành. Chính người có phát tâm mới có giao cảm giữa người cứu độ và người cầu độ, mới gặt hái được kết quả lợi Diệt tộiThành tâm sám hối, phát đại nguyện, hành giả tụng các thần chú diệt tội mới có linh cảm Diệt định nghiệp chơn ngôn của ngài ịa Tạng .Diệt bất định nghiệp chơn ngôn của ngài Quán Tuyên thuyết định giới thần chú khai yết hầu chơn ngôn và tam muội da giới chơn ngôn. ể cho chúng sanh diệt trừ chướng ngại, mở rộng yết hầu, thọ hưởng pháp thực; thọ xong , giữ giới để thoát khỏi phiền Biến thức ăn thành pháp vị Biến thực chơn ngôn, Cam lồ thủy chơn ngôn, Nhất tự thủy chơn ngôn, Nhủ hải chơn ngôn; khiến cho chúng sanh thọ hưởng được sung Niệm Phật ể cho hành giả và chúng sanh tạo duyên lành gây chủng tử Kết nguyện Thần chú gia trì tịnh pháp thực, tất cả Phật tử, hữu tình, cô hồn đã no đủ, xã hết tham dục mau thoát cảnh u đồ vào tịnh độ. Trì chú”vô giá thực chơn ngôn” phá tang sự ngăn ngại thánh phàm, tăng tục, bình đẳng thọ hưởng cam lồ Hồi hướng Cầu cho tất cả chúng sanh an lành vãng sanh cực này có ba điểm cốt lõi Tâm thành, kinh chú, thân khẩu y thanh lập bàn cúng Thí thực Thông thường là phải có 2 hai bàn một bàn cao và một thấp hơn gọi là bàn thượng và bàn hạ _ Bàn thượng Tôn trí tượng Phật, hay tượng Bồ Tát, nhưng thông thường là tượng ngài Tiêu Diện ại Sĩ hóa thân của ngài Quán Thế Âm, lư hương, đèn, hoa, quả, ly nước Bàn hạ bàn đồ ăn cũng trang trí lư hương, đèn, bông, trái, ly nước trong, ly đề pha nước trà, một bình trà cúng. Phía sau dãy đồ thờ là một mâm cơm cúng gồm đủ đồ ăn như cúng linh, ngoài ra còn có một nồi cháo thật lõng cháo thánh, một dĩa lớn hoặc một khay gồm muối hột, gạo, đường thẻ. . . đây là thành phần chính yếu, nếu có thêm các thứ khác như bắp, khoai lang, củ mì, bánh tráng, trái cây . . càng nhiều càng tốt.*Nếu có điều kiện và khả năng thì lập thêm một bàn nữa phía trước bàn đồ ăn. Bàn nầy cao hơn bàn đồ ăn, nhưng thấp hơn bàn Tiêu Diện một chút. Trên bàn nầy tôn trí tượng ngài ịa Tạng, lư hương, đèn, bông, trái như các bàn lại, hai bàn thượng là bàn Phật, Bồ Tát nên trang trí đơn giản, trang nghiêm và không để đồ ýa Bàn thí thực luôn luôn lập ngoài nhà, trước cửa chính, nhìn vào bàn Phật trong nhà, tín chủ lạy hướng từ trong nhà lạy ra, cách thức lạy như lạy linh. Thí thực được cúng tại tư gia sau khi có lễ cầu an, cầu siêu hoàn Bàn thí thực Cô hồn không được lập gần cây thạch lựu, hoặc cây đào vì Quỷ sợ loại cây Trước bàn thí thực phải dành một khoảng trống; ít nhất là bằng một chiếc chiếu để quí vị Quỷ Thần, Cô hồn có chỗ lễ bái chư Phật và thọ thực không bị chướng ngại. Khi hương đã thắp lên rồi thì không nên đi qua, lại trong vùng nầy, mà chỉ nên đi hai bên. Chủ lễ Cư sĩ nên đứng sau chiếu dành cho các vị Quỷ Thần và Cô hồn. Nếu trai đàn chẫn tế, lược khoa thì khoảng trống nầy ở trước bàn Giác Hoa, và nên dùng loại dải vải vàng để làm ranh giới khu vực Thực phẩm cúng Nếu có cúng rau; nên cúng rau chín như rau luộc hoặc nấu canh, không được cúng rau sống. Cháo thánh phải nấu thật lỏng nhiều nước, nhưng ít gạo. Không nên lấy cơm rồi cho nước vào để làm Ban Nghi lễ và người tham dựa Trong suốt thời gian cung hành nghi lễ, tất cả mọi người không được ăn hay uống bất cứ món gì. Ngoại trừ thời gian nghỉ ngơi đã được qui định trong nghi Phải hành lễ theo đúng thứ tự mà nghi thức đã qui định, không được đảo lộn như thỉnh Cô hồn trước rồi thỉnh chư Phật và Bồ Tát sau. Tuy nhiên được phép thay đổi các bài thỉnh, nhưng nội dung vẫn không Vị phụ trách hương đăng phải cắm hương sau mỗi lần thỉnh vào đúng lư hương của chư Bồ Tát hay Cô hồn như lời cung Nếu có iệp văn nên tuyên đọc sau diên trà thứ đây là những điều rất căn bản, tầm thường. Nhưng chính vì sự tầm thường đó mà chúng ta hay phạm phải và xem nhẹ; trong khi chính mình đang làm công việc đó và là người chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi hậu quả. Do đó chúng tôi viết lên những dòng chữ nầy với một ước nguyện duy nhất là mong quí vị Cư sĩ đang có trách nhiệm nghi lễ để duy trì mạch đạo và bảo tồn một phần truyền thống văn hóa của dân tộc hãy lưu tâm, hầu ứng phú hửu hiệu trong mọi hoàn cảnh. Cao hơn cả là chẩn tế cô hồn, chú trọng đến siêu độ cho các âm linh oan hồn uổng tử, bất đắc kỳ tử, bất định nghiệp, chiến sĩ trận vong không nơi nương tựa. Không những thí thực mà còn một lòng mong cứu độ cho chư vị thoát khỏi cảnh khổ nghiệp ác của cõi ngạ quỷ cô hồn. Một khoa nghi nhiều lợi lạc nhất nhưng rất khó thực hiện, vì phải đòi hỏi tinh thông cả hai mặt, kinh điển và mật điển. Mật điển của khoa Du Già là Tam Mật đồng tu Thân kiết ấn, Khẩu trì chú, Ý quán tưởng. Ấn là Pháp thân, Chú là Báo thân, Kinh văn là Hóa thân. Thành tâm cầu nguyện thập phương Tam bảo gia hộ, tam nghiệp thanh tịnh, phát khởi tam tâm từ bi, hỷ xã, bình đẳng độ thoát địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tam đồ khổ não, chúng sanh đồng sanh an dưỡng. Có thể nói đây là một pháp hành trì mà âm cảnh và dương gian đồng lợi lạc. Phần nghi lễ thường do một số thầy thuần thục khoa nghi Du già ngồi đànCung trần pháp đàn chẩn tế àn tràng tiếng Phạn là Mạn đà la, có nghĩa là một chỗ ngồi, một cuộc đất, lại còn có nghĩa là Luân viên cụ túc. Tức là lập một cái đàn bằng đất cao, vuông hoặc tròn đặt chư tôn lên đó mà cúng tế. Trên đàn tập trung đầy đủ chư tôn, chư đức, tạo thành một đại Pháp môn, một bánh xe tròn trặn, lại còn có nghĩa nơi tụ hội của thánh hiền, muôn đức đều quay về. Vậy cung trần pháp đàn chẩn tế là bày biện, sắp xếp vị trí hành lễ chẩn tế tròn đầy trang nghiêm theo khoa nghi. Thứ tự từ trong ra như sau1/ Bàn Phật Cung thỉnh tượng Phật Thích Bàn kinh Kinh sách, chuông mõ, pháp Tham lễ Giác Hoàng Chủ sám vào bạch Phật, đội nón Tỳ Lư Nón Tỳ Lư tỳ Lư là tên gọi tắc của Tỳ Lư Giá Na tên chung của Pháp thân Phật tức là đức ại Nhật Như Lai của Mật giáo. Vị Tăng thủ tọa đội nón Tỳ Lư đứng làm đức Phật Tỳ Lư Giá Na ại Nhật Như Lai tụng kinh thí thực trong lễ Vu Lan. Do đó nón này các gia trì sư đội trong các lễ trai đàn chẩn tế, bạt độ và tang lễ của Phật giáo Việt nam4/ Màn Sư tử toà Sư tử tọa là chỗ ngồi của là bậc oai đức hơn tất cả chúng sanh. Cũng như sư tử dõng mãnh hơn tất cả các thú. Chớ chẳng phải là Phật ngồi trên mình con sư tử. Cho nên dù Phật ngồi bất cứ ở đâu, dù trên ghế, hòn đá, gốc cây hay mặt đất... thì những chỗ đó đều gọi là sư tử tòa. Vậy bức màn sư tử tòa là bức màn có hình con sư tử được vẽ rất oai nghiêm, dõng mãnh treo sau lưng vị gia trì sư, tượng trưng chỗ ngồi của Bảo tọa Chỗ ngồi của gia trì sư, khi ngồi vào đây là đại diện chư Phật vì chúng sanh, đặc biệt là cô hồn mà tuyên dương chánh pháp. Theo khoa nghi trước khi vị chủ sám vào chỗ ngồi phải cung hành một nghi thức mật pháp rất nghiêm trang. Sau khi cung thỉnh ngũ phương Phật xong, vị chủ sám đến trước bàn Giác Hoa. Vị tả kim đài 1 đứng vào vị trí ở bàn kim đài, hai tay nâng thủ lư cung thỉnh sám chủ đăng bảo tọa để thuyết giới cho cô hồn. Vị chủ sám đáp lời và xin phép chư Phật cho đăng bảo tọa. Vị tả kim đài 1 ra lệnh cử chuông trống Bát Nhã để cung nghênh bằng động tác vổ thủ xích, chuông trống Bát Nhã cử hành, sám chủ quay về trái thượng bảo tọa. Kinh sư vào vị trí bàn kim Màn song khai Trước bảo tọa là bức màn phân làm đôi, được đóng lại hoặc mở ra tùy theo quy định trong khoa Bàn kim đài Kinh sư ngồi hai bên tả hữu, mỗi bên ba hay bốn người. Thứ tự tính từ trong ra ngoài. Có đội nón Tỳ Lư hay không và xử dụng pháp khí tan hay đẩu tùy theo địa Bàn giác hoa Giác Hoa ịnh Tự Tại Vương Như lai, một đức Phật ở cõi Ta bà, hồi đời quá khứ cách nay không biết bao nhiêu kiếp. Ngài có tuổi thọ bốn trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp. Về đời tượng pháp của đức Phật ấy có mọt cô gái Bà la môn, nhân mẹ vừa khuất, đến chiêm lễ tượng Phật Giác Hoa ịnh Tữ Tại Vương tại chùa cầu cho biết hồn mẹ ở chốn nào, ngài liền khiến thần thức của cô gaí ấy đến cõi địa ngục. Nơi đây quỷ vương cho biết nhờ phước đức cúng Phật và bố thí của thánh nữ, hồn bà được thoát cảnh địa ngục mà lên cảnh tiên. Cô gái ấy tức là tiền thân của ịa Tạng Bồ ngoài cócác bàn ngũ phươngNgũ phương Phật là một hệ thống phối trí chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hộ pháp hết sức thâm diệu của Phật giáo Mật tông; và là sự phối hợp giữa ngũ phương, ngũ trí, ngũ Phật, ngũ bộ và ngũ hành trong Thai tạng Mạn đà la và Kim Cang Giới Mạn đà la. Do đó đàn tràng ngũ phương cũng được lập hai cách khác nhaua/ Lập theo trung khoa Du Già1/ Trung ương Tỳ Lô Giá Na ại Nhật Như Lai Hiển thân sắc màu vàng, đối diện bàn Giác Phương ông A Súc Phật Bất ộng Như Lai Hiển sắc màu xanh, trở mặt vào bàn trung Phương Tây Phật A Di à. Hiển sắc màu trắng, trở mặt vào bàn trung Phương Nam Bảo sanh Phật. Hiển sắc màu đỏ, trở mặt vào bàn trung Phương Bắc Bất Không Thành Tựu Phật. Hiển sắc màu đen, trở mặt vào bàn trung Lập theo Kim Cang Giới Mạn à La1/ Trung ươngTỳ Lô Giá Na Phật- Phật giới thể tánh trí, thân sắc màu Phương ông A Súc Phật- Kim Cang viên cảnh trí, thân sắc màu xanh hoặc màu Phương Tây A Di à Phật- Liên Hoa bộ. Diệu quan sát trí, thân sắc màu Phương Nam Bảo Sanh Phật- Bảo đẳng tánh trí, thân sắc màu Phương Bắc Bất Không Thành Tựu Phật- Yết Ma sở tác trí, thân sắc màu lục Sở dĩ có sự khác biệt về thân sắc của ngũ phương Phật là do nhiều nguyên nhân như Truyền bá đến các nước Phật giáo bằng nhiều đường khác nhau, ảnh hưởng truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc, tiến trình kết cấu và phát triễn Mạn à ra ấn tướng của chư Phật trong ngũ phương cũng có khác nhau theo sự phát triễn không ngừng của triết học Mạn à La. Nhưng đây chỉ là những dị biệt nhỏ về hình thức, còn nội dung và mục đích tu chứng hoàn toàn không có gì thay Phía sau Ngũ phương Phật là1/ Bàn ịa Tạng đồng hướng và cao như bàn Trung ương2/ Bàn hộc thực thấp hơn, để đồ cúng3/ Bàn Tiêu Diện cao hơn bàn ịa Tạng Ngũ phương, ịa Tạng và Tiêu Diện là bảy vị Phật độ cô hồn nhập đàn tràng thọ hưởng pháp lạc. Thường tại chùa hay tư gia có thờ Phật, chỉ lập đàn tràng từ màn Sư tử tòa đến bàn Tiêu Diện trên rạp tiền chế. Nếu không đủ sứ chẩn tế thì cúng lược khoa phần kinh chú nhẹ hơn, phần đàn tràng khỏi lập ngũ Ộ Giải oan Bạt độ có nghĩa là cỡi bỏ oan khiên trói buộc, nhổ sạch phiền não đưa hương linh qua sông mê về bến giải oan Bạt độ mang một tính cách vô cùng quan trọng là ta luôn nghĩ đến những oanhồn uổng tử, những bất đắc kỳ tử trong thân thuộc giòng họ đang chơi vơi nơi cảnh ngạ quỷ cô hồn chưa được siêu thoát mong được hoá giải cứu độ. Trong hành lễ, Sám chủ xử dụng ấn chú và cây Tích trượng trong hình thức giải oan Triệu thỉnh, Phá địa ngục, Giải tội khiên, Sám hối, Quy y . Cây Tích trượng còn có tên là Thanh trượng, Minh trượng, Trí trượng hay ức trượng. Hiển giáo dùng làm gậy khi đi khất thực và đuổi trùng thú. Theo Tích trượng kinh -Tích trượng của Phật Ca Diếp có hai gọng và 12 vòng tượng trưng cho hai đế chơn đế và tục đế và thập nhị nhân duyên. -Tích trượng của Phật Thích Ca có 4 gọng và 12 vòng tượng trưng cho tứ đế và thập nhị nhân Mật giáo thì cho đó là cây Thập Pháp Giới do 5 đại tạo thành, là hình Tam Muội Da của đức ịa Tạng có 6 vòng tượng trưng lục độ, trên đầu gậy có 5 bánh xe tượng trưng Bảo tháp. Hình thức dẫn độ hương linh qua cầu từ bến mê về bờ giác, bẽ gảy chiếc cầu giữa đôi đường mê giác, ân cần nhắc nhở chư hương linh đoạn tuyệt với quá khứ xấu xa, chuyên tâm tu hành thánh đạo” oạn nhất thiết ác, tu nhất thiết thiện, độ nhất thiết chúng sanh”. Hơn nữa, trong kinh Pháp Cú, Phật cũng đã dạy”Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ các trạng thái tâm lý và hành vi”.Nếu con người hành động hay nói năng với một tâm ác xấu thì khổ não sẽ lê bước theo sau người ấy như bánh xe lần theo dấu chân của con bò kéo xe. Ngược lại nếu con người hành động bằng tâm thiện lành thì hạnh phúc sẽ đuổi theo người ấy như bóng không rời hình” Với tâm thiện lành từ đây chắc hẳn âm linh thoát khỏi cảnh khổ phiêu bồng, chúng ta cũng không còn dây dưa với nghiệp cảm ấy nữa. Ngoài ra chúng ta còn có những cách bạt độ khác thuần túy như quy y linh, vớt vong, thuyết
Pháp hội Trai đàn chẩn tế là nghi lễ có ảnh hưởng Mật giáo, thuộc Pháp hội Thủy lục – nghi thức cúng cô hồn, do ngài Bất Không Tam Tạng Pháp sư đời Đường ở Trung Quốc khởi truyền. > Ý nghĩa siêu độ, bạt độ trong nghi thức Mông Sơn thí thực Nguồn gốc pháp hội Trai đàn chẩn tế Trai đàn chẩn tế hay Giải oan bạt độ và chẩn tế là một nghi lễ ảnh hưởng Mật giáo, tên thường trong khoa giáo là Du già Diệm khẩu, dân gian thường gọi là Phóng diệm khẩu, người Việt chúng ta gọi vắn tắt là Pháp hội Trai đàn chẩn tế, thuộc Pháp hội Thủy lục – nghi thức cúng cô hồn, do ngài Bất Không Tam Tạng Pháp sư Kim Cương Trí đời Đường ở Trung Quốc khởi truyền với các phần chú và ấn làm cơ bản. Từ thời Tống trở về sau, các Pháp sư đã bổ sung thêm phần hiển giáo giáo lý được diễn đạt bằng lời có thể hiểu được. Trai đàn chẩn tế hay Giải oan bạt độ và chẩn tế là một nghi lễ ảnh hưởng Mật giáo. Về niên đại Pháp hội Trai đàn chẩn tế du nhập Việt Nam, hiện nay chưa thấy một tư liệu nào nói chắc chắn. Trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tác giả Nguyễn Lang tức Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cho rằng khoa nghi này do ngài Hứa Tông Đạo từ Trung Hoa truyền vào và quảng bá ở Việt Nam đầu thế kỷ XIII. Hiện nay chúng ta còn có một tư liệu do Trúc Lâm Đệ tam tổ Huyền Quang soạn “Pháp sư đạo tràng công văn cách thức thủy lục chư khoa”. Ở nước ta, thế kỷ III, ngài Khương Tăng Hội có soạn bộ “Nê hoàn phạn bái” Diễn nghi thức hành trì kinh Niết Bàn bằng lễ nhạc. Và sâu xa hơn, nghi thức này bắt nguồn từ thời Đức Phật, như đã đề cập trong Phật thuyết cứu bạt Diệm Khẩu Đà la ni kinh. Thế kỷ III, ngài Khương Tăng Hội có soạn bộ “Nê hoàn phạn bái” Diễn nghi thức hành trì kinh Niết Bàn bằng lễ nhạc. Và sâu xa hơn, nghi thức này bắt nguồn từ thời Đức Phật, như đã đề cập trong Phật thuyết cứu bạt Diệm Khẩu Đà la ni kinh. Với cái nhìn của người học Phật, ngoài cuộc sống của con người chúng ta ở dương thế còn có những người bị oan nghiệp trói buộc, những oan hồn bị bỏ rơi, không nơi thừa nhận…, trước tình cảnh đó, người học Phật không thể làm ngơ mà phải hành động để giúp đỡ. Với tâm từ bi, tình người phải được trải đều không phân biệt trong những người thân của mình. Có thể nói nôm na, trai đàn chẩn tế như một cuộc ủy lạo, và đối tượng ủy lạo ở đây là chúng sinh cõi âm, những cô hồn, oan hồn không nơi nương tựa, trong đó có cả người thân của mình vừa chết cũng như nhiều đời. Với cái nhìn của người học Phật, ngoài cuộc sống của con người chúng ta ở dương thế còn có những người bị oan nghiệp trói buộc, những oan hồn bị bỏ rơi, không nơi thừa nhận…, trước tình cảnh đó, người học Phật không thể làm ngơ mà phải hành động để giúp đỡ. Có những người khi còn sống có những tư duy, lời nói và việc làm không tốt, khi chết đi, chắc chắn sẽ nhận lấy những kết cục xấu. Người học Phật có quan niệm rằng phải giúp những người đó nhận ra chân lý bằng Phật pháp, lẽ phải để họ tự nhận ra và tự tháo gỡ những trói buộc, vượt thoát các nghiệp xấu. Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhắm đến người đã khuất, nhưng tinh thần và đặc biệt là phần hiển giáo còn có ý nghĩa nhắn gởi đến người còn sống những đạo lý tốt đẹp để sống tốt hơn. Với tâm từ bi, tình người phải được trải đều không phân biệt trong những người thân của mình. Ý nghĩa của tên gọi “Du già niệm khẩu”, “Thủy lục Giải oan cứu bạt trai đàn”, "Pháp hội Trai đàn chẩn tế",... Du già là phiên âm từ Phạn ngữ, có nghĩa là tương ứng. Người hành giả hành trì khoa nghi này phải có sự tương ứng giữa thân, khẩu và ý miệng tụng chú, tay thể hiện ấn, ý quán tưởng. Diệm Khẩu là tên của một loài quỷ luôn trong tình trạng đói khát như miệng luôn đang rực lửa. Theo kinh điển, với tâm từ bi, hạnh nguyện cứu độ muôn loài đang ở trong hoàn cảnh khổ nạn, Bồ tát Quán Thế Âm đã hiện thân làm quỷ Diệm Khẩu trong lúc ngài A Nan nhập định, để ngài A Nam bạch lại với Đức Phật, mong Đức Phật phương tiện giảng pháp cứu độ cho những loài quỷ và rộng hơn là những người bị oan khiên trói buộc, những cô hồn không nơi nương tựa, bị bỏ rơi… Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhắm đến người đã khuất, nhưng tinh thần và đặc biệt là phần hiển giáo còn có ý nghĩa nhắn gởi đến người còn sống những đạo lý tốt đẹp để sống tốt hơn. Hòa thượng Nhất Hạnh đã sử dụng những từ ngữ trong khoa giáo và sắp đặt lại theo chủ đề nhấn mạnh của Hòa thượng. Hòa thượng đã gọi tên pháp hội này là “Thủy lục giải oan bình đẳng cứu bạt trai đàn” và đã có sự giải thích trên trang nhà của Đạo Tràng Mai Thôn. Tên gọi pháp hội Thủy lục có từ thời Lương Võ Đế, với tên gọi đầy đủ là “Pháp giới thánh phàm thủy lục đại trai thắng hội”, do ngài Chí Công biên soạn mà hiện nay người Hoa vẫn hành trì. Thủy lục dưới nước và trên đất liền nhưng thực ra là bao gồm cả trên không nữa, nhưng vì theo quan niệm thông thường, cảnh giới ở dưới và trên mặt đất tạo oan nghiệp nặng hơn nên nhấn mạnh trong tên gọi như thế. Pháp hội Trai đàn chẩn tế có thể tổ chức vào bất cứ lễ hội nào, vào bất cứ mùa nào trong năm cũng được. Khái niệm “cô hồn” trong Pháp hội Trai đàn chẩn tế Các kinh sư ở Trung Hoa đại lục hành trì Pháp hội Trai đàn chẩn tế có nhiều điểm khác biệt, sự khác biệt rõ nhất là rất phong phú trong âm nhạc, giọng điệu, hình thức trang nghiêm hơn. Khoa nghi chẩn tế ở nước ta đậm đà bản sắc âm nhạc dân tộc và mang đặc điểm ba miền khá rõ. Qua sự chứng kiến pháp hội Thủy lục chẩn tế của quý thầy ở Trung Hoa, khoa nghi chẩn tế của Phật giáo Việt Nam có nét đặc trưng. Và đạo lực, sự trong sáng trong tâm linh của những vị hành giả hành trì pháp hội này chính là nội dung của pháp hội. Pháp hội Trai đàn chẩn tế Thường được tổ chức vào dịp nào? Pháp hội Trai đàn chẩn tế có thể tổ chức vào bất cứ lễ hội nào, vào bất cứ mùa nào trong năm cũng được. Nhưng không khí và tình cảnh quen thuộc với mọi người đó là trong dịp tiết tháng Bảy âm lịch, trùng hợp với hai sự tích đó là câu chuyện về ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ trong Phật giáo và ngày xá tội vong nhân của Đạo giáo. Theo quan niệm của Phật giáo, chiều tối là khoảng thời gian thích hợp với người âm. Thời gian của họ nên mình “nói chuyện” với họ sẽ dễ thuận hợp. Vào những dịp như báo hiếu tổ tiên, cha mẹ, thầy tổ…, người ta cũng có thể tổ chức Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhằm cầu âm siêu dương thái, trong tinh thần từ bi của đạo Phật, không chỉ hạn hẹp cho người thân mà còn cầu cho tha nhân, các chúng sinh khác. Theo quan niệm của Phật giáo, chiều tối là khoảng thời gian thích hợp với người âm. Thời gian của họ nên mình “nói chuyện” với họ sẽ dễ thuận hợp.
Không có quá nhiều sự khác biệt so với những phong tục tập quán khác, phong tục tang lễ của mỗi vùng miền cũng mang trong mình những nét riêng biệt, đặc trưng. Mọi người cùng đọc bài viết dưới đây, để tìm hiểu về phong tục tang lễ của người miền Trung có gì khác so với những miền khác nhé! Phong tục tang lễ hay còn được gọi là lễ tang, đám ma, ma chay… là một trong những nghi thức gồm nhiều lễ nghi mà người còn sống thực hiện đối với người đã khuất, nhằm thể hiện sự kính trọng và nhớ thương đối với họ. Việt Nam là một đất nước với nhiều dân tộc, vùng miền và đa dạng văn hóa. Do đó, ở mỗi vùng miền khác nhau sẽ có những phong tục thực hiện tang lễ khác nhau. Nhìn chung, vẫn sẽ có một vài điểm giống nhau trong quá trình thực hiện đối với phong tục tang lễ của người miền Trung. Phong tục tang lễ của người miền Trung diễn ra như thế nào? Địa phận sinh sống của người miền Trung tại Việt Nam Việt Nam có ba miền địa lý trải dài theo hình chữ S đó là Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Trong đó người miền Trung Trung Bộ là những người sinh sống trong các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận cùng một số các tỉnh Tây Nguyên. Trong khu vực miền Trung cũng được chia ra thành ba vùng theo vị trí địa lý là Bắc Trung Bộ gồm Thừa Thiên – Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa. Duyên hải Nam Trung Bộ gồm Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, TP. Đà Nẵng. Khu vực Tây Nguyên gồm Lâm Đồng, Đăk Nông, Đăk Lăk, Gia Lai, Kon Tum. Cần chuẩn bị những gì trong phong tục tang lễ của người miền Trung Rất ít những gia đình nào chuẩn bị trước tang lễ cho người thân của mình. Thường thì gia chủ chỉ có thể quan sát những dấu hiệu của những người đã quá lớn tuổi thông qua những dấu hiệu tuổi già. Nhưng điều này cũng không hoàn toàn chính xác, vì vậy càng chứng tỏ được việc không thể chuẩn bị kỹ càng trước cho bất kỳ một tang lễ nào. Đối với người miền Trung, khi người thân vừa mới mất, họ sẽ nén lại sự đau thương mà chuẩn bị chỉn chu cho tang lễ với những việc như sau Báo tang cho những người trong gia đình, dòng tộc, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp,… Chuẩn bị trang phục cho người đã khuất và những người trong gia đình Tẩm liệm cho người đã mất Lau người, điều chỉnh lại hình thể, một số gia đình còn chỉnh trang lại cho người mất. Chuẩn bị quan tài thường thì theo phong tục tang lễ của người miền Trung khi mua quan tài cho người đã mất sẽ là những loại bằng gỗ có tính chống nước tốt, hình vuông là chủ yêu. Và bên trong quan tài sẽ được tra kỹ lại ở bốn góc bởi nước cơm và đất sét. Bên ngoài quan tài sẽ được trang trí bởi những loại hoa văn đơn giản như hoa sen. Để kiến không bò vào trong quan tài, gia chủ sẽ sử dụng dầu hỏa bôi vào bốn chân ghế đỡ. Phía dưới quan tài sẽ được đặt một dĩa đèn dầu phụng được thắp sáng cả ngày lẫn đêm. Người ta quan niệm rằng, làm việc này sẽ tránh được mùi tử khí tỏa ra. Lập bàn thờ trước khi tiến hành khâm liệm Bàn thờ vong sẽ được đặt ở phía trước cửa. Cho những ai chưa biết, thì bàn thờ vong còn được gọi theo một cái tên khác là cỗ linh sa một chiếc bàn rông. Linh sa sẽ bao gồm Bài vị, ảnh, quý danh, tuổi của người đã khuất và mâm trái cây với các loại như bưởi, chuối. Nếu như người đã mất theo đạo Phật, thì gia chủ cần phải chuẩn bị thêm bàn thờ Phật trước linh tọa Chuẩn bị cơm cúng cơm cúng người đã mất được làm bằng cách ép hai chén cơm chặt vào nhau và cắm một đôi đũa tre, rồi đặt trên đầu người mất. Một số thứ chuẩn bị khác như bông cúng 2 bình thường là hoa cúc, trái cây, nước trà, đồ chay, trà khô, ly để cúng, nhang đèn và quần áo vật dụng cá nhân của người mất. Ngoài ra, đa phần những gia chủ sẽ thuê thêm thầy chùa về làm lễ, thuê những đội người chuyên thổi kèn hát đám ma để cho tang sự được đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất. Những nghi lễ nào được diễn ra Đầu tiên, sau khi nhập liệm sẽ là lễ thành phục Đây là nghi lễ chịu tang, tất cả những người trong gia đình nội ngoại đều phải được bịt khăn tang. Thông thường, màu của trang phục và khăn tang sẽ là màu trắng. Để phân biệt nội ngoại, thì chắt ngoại sẽ bịt khăn vàng, còn nội sẽ là khăn đỏ. Nếu theo phong tục ngày xưa, nam và nữ sẽ có những kiểu khăn tang khác nhau, nhưng bây giờ thì để đơn giản hóa hơn, gia đình thường sẽ giống nhau về mặt hình thức. Sau lễ này thì mới chính thức phát tang và sau đó sẽ có những người quen, họ hàng, hàng xóm đến phúng viếng. Tiếp theo sẽ là nghi thức Tang gia Lễ này còn được gọi là “Chiêu tịch diện”. Có nghĩa là con cháu vào các buổi trong ngày sẽ thay nhau dâng khăn mặt, bàn chải đánh răng, chậu nước và thức ăn điểm tâm từ nơi người đã khuất thường nằm ra tới linh tọa, vừa đi vừa khóc thật to. Tuy nhiên, nghi lễ này đã dần bị xóa bỏ bởi sự cầu kỳ và không mang tính trang nghiêm. Lễ động quan và di quan Trước ngày di quan, gia đình của người mất thường cả đêm sẽ không ngủ. Mà họ sẽ làm thêm lễ chuyển cửu, quay quan tài một vòng với hàm ý cho vong hồn không còn nhớ đường về nhà nữa. Đến ngày động quan ngày phát dẫn, tang chủ sẽ đặt những tờ tiền dưới ly rượu đầy phía trước nóc áo quan để thưởng cho nhà đoàn, cốt ý muốn cho quá trình di quan diễn ra suôn sẻ. Nghi lễ Tế Đạo Trung Khi đi được một nửa đoạn đường đến nơi chôn cất, đoàn di quan sẽ tạm dừng lại làm lễ tế Độ Trung, mục đích của lễ này diễn ra là để đoàn di quan có thể được nghỉ ngơi, và những người chưa phúng điếu có thể đi điếu được trước khi chôn. Lễ Hạ Huyệt Hạ Khoáng Huyệt chôn người mất sẽ được đào 3 tấc đất 30cm, từ mặt đất đến nắp quan tài khoảng 1 mét, không quá cạn cũng không quá sâu làm xương bị khô hay bị mục. Người ta cho rằng, ba tất đất là nơi đủ tốt với khí âm dương. Lễ trị huyệt trước khi hạ huyệt sẽ đuổi được những vong hồn tà ác núp bên dưới huyệt. Nghi lễ tạ thổ tại nghĩa địa Sau khi hoàn tất quá trình chôn cất, gia chủ chuẩn bị hoa, bánh chuối, quần áo thổ thần để làm lễ tạ thổ. Phong tục hát đám ma Trong phong tục tang lễ của người miền Trung cũng có phong tục hát đám ma. Không khí tại tang lễ vô cùng ảm đạm bởi tiếng đàn nhị thê lương và tiếng kinh tụng trầm buồn. Những chuẩn mực trong tang lễ cần lưu ý Dù biết rằng, đám tang thực sự rất buồn đối với các gia chủ. Nhưng các gia chủ cũng cần thể hiện được sự văn minh trong quá trình tổ chức tang lễ như Không hát đám ma sau 22h đêm đến 6h sáng hôm sau. Có nhiều gia chủ vì quá đau xót mà quên đi những quy tắc chuẩn mực ảnh hưởng nhiều đến đời sống của những người xung quanh. Trong đám tang vái lạy như thế nào là đúng cách? Vái lạy là một hình thức thể hiện sự kính trọng với người đã khuất không riêng gì đối với với phong tục tang lễ của người miền Trung. Đàn ông và đàn bà sẽ có những cách thức vái lạy khác nhau Đàn ông Đứng tư thế nghiệm, chắp hai tay trước ngực, từ từ đưa tay qua trán rồi cúi xuống. Tiếp đến, xòe hai bàn tay úp xuống đất, cúi mình, quỳ gối chân trái và co lên rồi đứng dậy. Đàn bà Sẽ ngồi xuống mặt đất, để hai chân vắt chéo nghiêng về phía bên trái, bàn chân phải để dưới đùi chân bên trái và để ngửa lên trên. Sau đó tư thế vái lạy sẽ như đàn ông, nhưng khi đầu chạm đất sẽ đưa bàn tay đã xòe để lên đầu. Giữ tư thế trong 1 đến hai giây, rồi làm lại một lần nữa. Tang Lễ Hà Nội Tang lễ Hà Nội là một trong những nơi cung cấp những sản phẩm phục vụ tang lễ và dịch vụ hỗ trợ cho gia chủ chất lượng tại thủ đô Hà Nội hiện nay. Với phương châm hoạt động chu đáo nhiệt tình, tận tâm. Chúng tôi sẽ phục vụ tang lễ theo toàn bộ những yêu cầu mà khách hàng đưa ra, đồng thời cũng phù hợp với truyền thống. Sản phẩm đạt chuẩn chất lượng, Chi phí được tối ưu hợp lý, cùng đội ngũ nhân viên phục vụ chuyên nghiệp sẽ là lựa chọn hàng đầu cho khách hàng. Chúng tôi có dịch vụ Tổ chức trọn gói, Tổ chức tại Nhà riêng theo yêu cầu và Tổ chức tại Nhà tang lễ. Ngoài ra còn có Hỏa táng, chôn cất, Lập bàn thờ vong, Cho thuê xe tang lễ và bán đồ phục vụ tang lễ như phục trang, hoa, quách gỗ vàng tâm,… Bài viết trên là những chia sẻ của Tang lễ Hà Nội về phong tục tang lễ của người miền Trung. Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại cũng đã làm thay đổi một số ít về phong tục tang lễ của họ cho bớt rườm rà hơn và càng văn minh hơn. Quan trọng là sự chuẩn bị chu đáo đã thể hiện được sự hiếu đạo của người còn sống với người đã khuất!
nghi thức chẩn tế miền trung